Monks, these five future dangers are just enough, when considered, for a monk — heedful, ardent, and resolute — to live for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized. Which five?


Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sự sợ hăi về tương lai này, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Thế nào là năm?

 

There is the case where a monk reminds himself of this: At present I am young, black-haired, endowed with the blessings of youth in the first stage of life. The time will come, though, when this body is beset by old age. When one is overcome with old age and decay, it is not easy to pay attention to the Buddha's teachings. It is not easy to reside in isolated forest or wilderness dwellings. Before this unwelcome, disagreeable, displeasing thing happens, let me first make an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized, so that — endowed with that Dhamma — I will live in peace even when old.


Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như sau: "Nay ta c̣n trẻ, niên thiếu, c̣n thanh niên, tóc đen nhánh, trong buổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời. Nhưng rồi đến thời già sẽ xúc chạm thân này. Khi đă già yếu, và bị già chinh phục, thật không dễ ǵ để tác ư đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ ǵ để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ư, ta hăy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị già, ta sẽ sống được thoải mái".

 

This is the first future danger that is just enough, when considered, for a monk — heedful, ardent, and resolute — to live for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized.


Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hăi thứ nhất này về tương lai, như vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt đến những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ.

 

Furthermore, the monk reminds himself of this: At present I am free from illness and discomfort, endowed with good digestion: not too cold, not too hot, of medium strength and tolerance. The time will come, though, when this body is beset with illness. When one is overcome with illness, it is not easy to pay attention to the Buddha's teachings. It is not easy to reside in isolated forest or wilderness dwellings. Before this unwelcome, disagreeable, displeasing thing happens, let me first make an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized, so that — endowed with that Dhamma — I will live in peace even when ill.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát như sau: "Nay ta ít bệnh, ít năo, sự tiêu hóa được điều ḥa, không lạnh quá, không nóng quá, trung b́nh, hợp với tinh tấn, nhưng rồi đến thời bệnh sẽ xúc phạm thân này. Khi đă bị bệnh và bị bệnh chinh phục, thật không dễ ǵ tác ư đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ ǵ để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ư, ta hăy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái này, dầu có bị bệnh, ta sẽ sống được thoải mái".

 

This is the second future danger that is just enough, when considered, for a monk — heedful, ardent, and resolute — to live for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized.


Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hăi thứ hai này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt đến những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ.

 

Furthermore, the monk reminds himself of this: At present food is plentiful, alms are easy to come by. It is easy to maintain oneself by gleanings and patronage. The time will come, though, when there is famine: Food is scarce, alms are hard to come by, and it is not easy to maintain oneself by gleanings and patronage. When there is famine, people will congregate where food is plentiful. There they will live packed and crowded together. When one is living packed and crowded together, it is not easy to pay attention to the Buddha's teachings. It is not easy to reside in isolated forest or wilderness dwellings. Before this unwelcome, disagreeable, displeasing thing happens, let me first make an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized, so that — endowed with that Dhamma — I will live in peace even when there is famine.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát như sau: "Nay không có đói kém, được mùa, đồ ăn khất thực dễ kiếm được, thật dễ dàng để nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Nhưng rồi đến thời có nạn đói, mất mùa, đồ ăn khất thực nỗ lực được, không dễ ǵ nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Và những người bị nạn đói sẽ dời đến chỗ nào được nhiều đồ ăn; tại đấy, phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp. Khi phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp, thật không dễ ǵ để tác ư đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ ǵ để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không khả ư, ta hăy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị đói kém, ta sẽ sống được thoải mái".

 

This is the third future danger that is just enough, when considered, for a monk — heedful, ardent, and resolute — to live for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized.


Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hăi thứ ba này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, đạt đến những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ.

 

Furthermore, the monk reminds himself of this: At present people are in harmony, on friendly terms, without quarreling, like milk mixed with water, viewing one another with eyes of affection. The time will come, though, when there is danger and an invasion of savage tribes. Taking power, they will surround the countryside. When there is danger, people will congregate where it is safe. There they will live packed and crowded together. When one is living packed and crowded together, it is not easy to pay attention to the Buddha's teachings. It is not easy to reside in isolated forest or wilderness dwellings. Before this unwelcome, disagreeable, displeasing thing happens, let me first make an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized, so that — endowed with that Dhamma — I will live in peace even when there is danger.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như sau: "Nay các loài Người sống với nhau thuận ḥa, hoan hỷ với nhau, không căi lộn nhau, ḥa hợp như nước với sữa, sống nh́n nhau với cặp mắt ái kính. Nhưng rồi đến thời có sự sợ hăi về nạn cướp rừng, dân chúng trong nước leo lên xe để trốn tại nào có sự sợ hăi, dân chúng đi động đến chỗ có sự an ổn. Tại đấy, phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp, thật không dễ với quần chúng, sống với hỗn tạp, thật không dễ ǵ để tác ư đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ ǵ để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ư, ta phải hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến để chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có gặp sự sợ hăi, ta sẽ sống được thoải mái".

 

This is the fourth future danger that is just enough, when considered, for a monk — heedful, ardent, and resolute — to live for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized.


Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hăi thứ tư này về tương lai, như vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt đến những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ.

 

Furthermore, the monk reminds himself of this: At present the Sangha — in harmony, on friendly terms, without quarreling — lives in comfort with a single recitation. The time will come, though, when the Sangha splits. When the Sangha is split, it is not easy to pay attention to the Buddha's teachings. It is not easy to reside in isolated forest or wilderness dwellings. Before this unwelcome, disagreeable, displeasing thing happens, let me first make an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized, so that — endowed with that Dhamma — I will live in peace even when the Sangha is split.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như sau: " Nay chúng Tăng ḥa hợp, cùng nhau hoan hỷ, không tranh luận nhau, sống thoải mái cùng chung một lời dạy. Nhưng rồi đến thời chúng Tăng chia rẽ. Khi chúng Tăng chia rẽ, thật không dễ ǵ để tác ư đến giáo pháp của các đức Phật. Thật không dễ ǵ để sống tại các trú xứ rừng núi, cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ư, ta hăy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, chúng Tăng có chia rẽ, ta sẽ sống được thoải mái".

 

This is the fifth future danger that is just enough, when considered, for a monk — heedful, ardent, and resolute — to live for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized.


Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hăi thứ năm này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt đến những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ.

 

These are the five future dangers that are just enough, when considered, for a monk — heedful, ardent, and resolute — to live for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized.


Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sợ hăi này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đạt, chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ.

See also: AN 5.77; AN 5.79; AN 5.80

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |